Đồng  bằng sông Cửu Long đang đối đầu với nguy cơ bị chìm khi mực nước biển  dâng cao. Cần phải có biện pháp đối phó với nguy cơ rất thật này. Tôi  trân trọng giới thiệu bài viết sau đây của Bác sĩ Ngô Thế Vinh,  trong đó anh đề xuất ý tưởng xây đê biển đa dụng cho vùng Đồng bằng  sông Cửu Long. Đây là một “conceptual paper”, phác thảo sơ qua một Con  Đê Biển Đa Dụng Ngăn Mặn cho vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, và trong  tương lai các tác giả sẽ cung cấp thêm chi tiết. NVTMEKONG-CỬU LONG 2011 NHÌN XA NỬA THẾ KỶ TỚI [2]
PHÁC THẢO 
DỰ ÁN ĐÊ BIỂN ĐA DỤNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
A POSSE AD ESSE  / TỪ KHẢ NĂNG TỚI HIỆN THỰC
NGÔ THẾ VINH
Do  áp lực mạnh mẽ của các quốc gia thuộc Lưu Vực Dưới sông Mekong, kể cả  cộng đồng quốc tế, cho dùLào đã đã có quyết định tạm ngưng khởi công xây  con đập thủy điện Xayaburi 1,260 MW, là con đập thủy điện dòng chính  đầu tiên trong  dự án 9 con đập của Lào;một dấu mốc được International Rivers Network / IRN và các nhà hoạt động môi sinh coi như một “thắng lợi”, nhưng cũng để thấy rằng đây chỉ là bước trì hoãn tạm thời. 
Nếu  so với hai con đập thượng nguồn Tiểu Loan /Xiaowan  4,500 MWvà Nọa Trác  Độ/ Nuozhadu 5,850 MW của Trung Quốc, mỗi con đập có công xuất trên  dưới lớn hơn 5 lần con đập Xayaburi, và riêng đập Tiểu Loan có hồ chứa  lớn hơn cả tổng dung tích 11 con đập hạ lưu cộng lại, nhưng Bắc Kinh thì  vẫn cứ ngang nhiên triển khai kế hoạch khai thác thủy điện sông Mekong  của họ cho do dù có phản ứng chống đối của dư luận quốc tế. Sự khác biệt  rất rõ ràng: Trung Quốc là một nước lớn với lý lẽ của kẻ mạnh và đầy  tham vọng vươn lên như một siêu cường, Lào chỉ là một quốc gia nhược  tiểu nghèo nàn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài trợ từ bên ngoài để có  thể thực hiện được các dự án đập của mình. 
Khi  mà Việt Nam là một trong những quốc gia lớn tiếng nhất chống dự án đập  Xayaburinhưng Hà Nội sẽ ăn làm sao nói làm sao, khi mà chính một công ty  nhà nước Petrovietnam Power Co. lại đứng tên tham gia vào dự án  xây con đập thủy điện Luang Prabang  1,410 MWtrên dòng chính sông Mekong  lớn hơn cả con đập Xayaburi. Để tiến tới xây dựng một “Tinh thần Sông Mekong / Mekong Spirit”Việt Nam không thể có một thứ tiêu chuẩn nước đôi/ double standard như vậy.
Lượng giá về một chính sách ngắn hạn
Cho  dù ý thức được tiến trình không thể đảo nghịch trong nỗ lực khai thác  tiềm năng thủy điện sông Mekong, nhưng chúng ta vẫn có nhu cầu phải đòi  hỏi sự trong sáng và minh bạch / transparency, và những lượng giá môi  sinh đúng mức cho những bước khai thác bền vững / sustainable  development. 
Chúng  ta rất cần thêm thời gian, bằng những cuộc vận động không những trong  phạm vi vùng mà cả với dư luận quốc tế.Kinh nghiệm tích cực với con đập  thủy điện Xayaburiđáng là một bài học. Nhưng cũng để thấy có những hạn  chế và khác biệt.Thay vì là con đập Xayaburi, giả thiết nếu đó là  mộttrong 2 con đập Sambor hay Stung Treng của Cam Bốt với ông Thủ tướng  là ông Hun Sen, thì liệu có đạt được một thỏa hiệp trì hoãn như đối với  chánh phủ Vạn Tượng hay không, khi mà ông Hun Sen luôn luôn khẳng định  rằng các con đập thủy điện thượng nguồn không có gì phải quan tâm;  tất  cả là do khí thải carbon/ carbon emissionsvà thay đổi khí hậu/ climate  change. (6)
Lượng giá về một chính sách dài hạn
Do  những nguyên nhân tích lũy, [1] Những con đập thượng nguồn, chủ yếu là  các con đập Bậc thềm Vân Nam của Trung Quốc với những hồ chứa khổng lồ  làm giảm lưu lượng nước, giảm lượng phù sa xuống Đồng Bằng Sông Cửu  Long, khiến không chỉ nước mặn càng lấn sâu vào vùng châu thổ mà còn tạo  ra hiện tượng sạt lở như với mũi Cà Mau hiện nay; [2] Hiện tượng hâm  nóng toàn cầu / global warming  do tăng lượng khí thải CO2 từ  than đá và dầu khí, làm tan dầnnhững tảng băng nơi hai cực Bắc và Nam,  cùng với khối băng tuyết Cao nguyên Tây Tạng còn được gọi là Cực Thứ Ba /  Third Pole ; hậu quả là nước biển ngày càng dâng cao.  Theo các nghiên  cứu về biến đổi khí hậu, mực nước biển có thể dâng cao từ 0. 8 m tới  1.5m vào năm 2100. Chỉ cần nước biển dâng cao 1mét, thì 90% diện tích  Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ chìm dưới mực nước biển. [Hình 1]

Hình 1: Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chìm dưới biển mặn vào năm 2100 khi mực nước biển dâng cao 1 m.
Trước  viễn tượng một Đồng Bằng Sông Cửu Long – vốn là vựa lúa nuôi sống cả  nước, không chỉ thiếu nguồn nước ngọt mà còn bị sạt lở và sẽchìm trong  biển mặn; Việt Nam sẽ không có một chọn lựa nào khác hơn là hình thành  một dự án vĩ mô / mega-project  xây dựng  [1] một con đê biển đa dụng  ngăn mặn và; [2] hai hồ chứa nước ngọt từ hai vùng trũng thiên nhiên là  Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau. (3)
Bài  viết thứ hai này, chủ yếu giới thiệu khái quát về một dự án phác thảo  Con Đê Biển Đa Dụng Ngăn Mặn cho vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tuy là  bước rất sơ khởi, chỉ mới là khái niệm / conceptual kỹ thuật  nhưng đây là công trình trí tuệ của anh Ngô Minh Triết, P.E. – một Kỹ sư  Cấu trúc / Structural Engineer (1), với sự cộng tác của anh Phạm Phan  Long, P.E. trong Nhóm Bạn Cửu Long; anh PP Long cũng thành viên sáng lập  Hội Sinh Thái Việt / Việt Ecology Foundation.
Mục tiêu của đê biển đa dụng
Như tên gọi ban đầu, mục tiêu chính của đê biển là ngăn mặndo hậu quả nước biển dâng cao và do lưu lượng “dòng chảy tối thiểu” từ thượng nguồn xuống Đồng Bằng Sông Cửu Long càng ngày càng sút giảm.
Do  hệ thống đê biển không nằm trên đất liền mà xa bờ, nên không có tổn phí  phải mua lại đất / land acquisition , mà có khả năng tạo những hồ chứa  trong vùng đệm giữa đê biển và bờ biển thiên nhiên hiện tại. Với thời  gian, do nguồn nước đổ xuống từ thượng nguồn, cộng với lượng nước mưa,  nước trong vùng đệm sẽ bớt mặn, tiềm năng khai thác chăn nuôi thủy sản  như  các loại cua biển, tôm xútrong vùng nước lợ / brackish water với nguồn lợi thu về sẽ rất lớn. 
Con  đê biển không những có hiệu quả tránh sạt lở giữ được đất, mà còn tạo  thêm những vùng đất mới / land reclamation, tăng diện tích canh tác và  cả triển vọng hình thành những đô thị mới. Phải xem đây là một trong  những nguồn lợi tức lớn và lâu dài để trả về một cách xứng đáng cho  nguồn vốn đầu tư rất lớn để xây dựng công trình.
Con  đê biển cũng sẽ là một hệ thống Xa Lộ Vòng Đai của Đồng Bằng Sông Cửu  Long. Theo kỹ sư Ngô Minh Triết, bề mặt đê biển có thể rộng tới 25 m, đủ  cho một xa lộ hai chiều, không chỉ cần thiết để bảo quảncông trình, mà  cả có tầm quan trọng chiến lược về giao thông, kinh tế và quốc phòng,  khi mà Biển Đông đã và đang là vùng tranh chấp gay gắt với nước lớn  Trung Quốc. [Hình 2]

Hình 2: Đồng bằng sông Cửu Long và Đê Biển Ngăn Mặn từ độ sâu 3 mét đường chỉ màu đỏ.
 Gió và mặt trời cũng sẽ là nguồn năng lượng thiên nhiên phong phú có thểkhai thác trên các vùng đất mới phía trong theo suốt chiều dài con đê biển. Và không thể không nghĩ tới một nguồn lợi tức đáng kể khác là Du lịch Sinh thái / Ecotourism, với các môn thể thao trên nước, như trượt nước, đua thuyền, câu cá / sport fishing …
Tính khả thi của dự án và phác họa mô hình đê biển 
Cấu  tạo địa chất đáy biển vùng cận duyên quanh Đồng Bằng Sông Cửu Long: 65%  là đất phù sa / silt, 25% là đất sét / clay, và phần còn lại là cát.  Vùng cận duyên hướng ra biển không sâu và khá phẳng, có độ dốc  từ0.8:1000  tại  các vùng  cửa sông , 5.0:1000 nơi vùng mũi Cà Mau. 
Dự  trù đê biển sẽ nằm trong vùng cận duyên có độ sâu trung bình là 3 mét,  chiều dài đê biển từ Gò Công vòng qua mũi Cà Mau tới Hà Tiên,tính theo  hình ảnh vệ tinh là khoảng 600 km. 
Đê  biển được nối lại với nhau nơi mỗi cửa sông bằng những công trình cầu  để bảo đảm tàu bè vẫn dễ dàng di chuyển hai chiều từ biển vào sông lên  tới tận Nam Vang, do Mekong là một con sông quốc tế / international  river. 
Kỹ thuật và nhân công chủ yếu là từ địa phương. Nguyên liệu chính là đất sét, cát từ đáy biển được chứa trong những bọc / geotextile containers(một loại bao polyester rất bền và thấm nước), sau đó được gia cố bằng đá nhỏ với concrete xi- măng. Cát từ biển cũng có thể dùng để tạo những bờ biển mới phía ngoài con đê. [Hình 3]

Hình  3: Sơ đồ Đê Biển Cắt Thẳng từ trái, hướng ĐBSCL sang phải, hướng biển,  xa lộ hai chiều, đường bảo quản, tường chắn sóng bão 200 năm.
Ngay từ ban đầu, ý thức được rằng đây là một công trình không chỉ có quy mô quốc gia, mà cả cho toàn Lưu vực Lớn Sông Mekong / Greater Mekong Subregion,  với thời gian là những đơn vị “thập niên”, đòi hỏi một ngân sách rất  lớnhàng chục tỉ USD, không chỉ từ ngân sách quốc gia, mà cần tới sự tài  trợ của của các nước Mỹ, Nhật, Úc… và các cơ quan tài chánh quốc tế: WB/  World Bank, ADB/ Asia Development Bank…Theo ước tính sơ khởi, số tiền  đầu tư cho dự án Đê Biền Chống Mặn Đồng Bằng Sông Cửu Long chắc hắn sẽ  ít hơn so với số vốn 56 tỷ USD mà nhà nước định tài trợ cho siêu dự án  Đường Sắt Cao Tốc. 
Và quan trọng hơn hết là cần có một “think tank”  tập hợp tất cả “chất xám” từ mọi lãnh vực chuyên môn từ thủy học, quan  trắc địa chất, thay đổi khí hậu, môi sinh…của mọi tầng lớp người Việt  trong nước cũng như bên ngoài, cùng với đội ngũ chuyên viên có kinh  nghiệm từ hai quốc gia như Hòa Lan Vùng Đất Thấp và Hàn Quốc với công  trình Saemageum và cũng không thể không nói tới Ủy Hội Sông Mississippi /  Mississippi River Commission, từng có rất nhiều kinh nghiệm về đê điều  và đang là tổ chức kết nghĩa với Sông Mekong từ tháng 7, 2009 do sáng  kiến của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. (5)
Một Việt Nam sống còn
Nếu  biết rằng, nửa sau của thế kỷ 21 này, sẽ không còn Đồng Bằng Sông Cửu  Long một vựa lúa nuôi sống cả nước, Sông Tiền Sông Hậu sẽ là hai con  sông chết vì thiếu nguồn nước ngọt do những con đập thượng nguồn nhưng  lại dư độ mặn do Biển Đông dâng cao, với hậu quả là sẽ không còn một Nền  Văn Minh Miệt Vườn, không còn một phần hình hài trẻ trung và đầy sức  sống của cả nước;trước kịch bản ấy, không thể không khởi động làm một  điều gì và lời giải đáp chắc chắn đòi hỏi rất nhiều trí tuệ, khởi đi từ  tinh thần sáng tạo, hình thành một “ý tưởng lớn” cùng với ý chí và quyết  tâm thực hiện. Và cũng để nhắc lại, là sẽ không có cái giá để mặc cả và  thời gian thì có thể hơn giới hạn một đời người, để bảo vệ vùng đất  định mệnh nhưng là một linh địa của dân tộc Việt. 
Từ  một đất nước trong suốt chiều dài lịch sử, luôn luôn chìm đắm trong  những cuộc chiến tranh, cũng là biện minh cho sự thiếu vắng những công  trình kỳ vĩ.  Đây chính là thời kỳ để đất nước Việt Nam chuyển từ một  nền “Văn Hóa Chiến Tranh / Culture of  War” sang một nền “Văn Hóa Hòa  Bình / Culture of Peace” cùng với bước đầu nhận thức phải thực hiện một  công trìnhxây dựng không chỉcó tính cách “sống còn” nhưng tự nó đã là  một kỳ quan về “kiến trúc sinh thái”trong Thiên Niên Kỷ của dân tộc  Việt. 
Nguồn an ninh lương thực thế giới
Việt  Nam Thái Lan cho đến nay vẫn là hai nước sản xuất lúa gạo lớn nhất thế  giới.Nhưng điều nghịch lý là nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long thì vẫn  sống “dưới mức nghèo khó” và không những thế, con cháu họ còn đứng trước  thảm họa “mất đất sống”. Với dân số trên trái đất này ngày càng gia  tăng theo cấp số nhân, và các nguồn lương thực quan trọng lại đang bị đe  dọa trầm trọng bởi chuỗi những thảm họado chính con người gây ra. Riêng  với Đồng Bằng Sông Cửu Long, thảm họa không chỉ đến  từ phương bắc do những con đập thượng nguồn Trung Quốc, từ phía đông  nam do biển mặn dâng cao hậu quả của hâm nóng toàn cầu. Cứu Đồng Bằng  Sông Cửu Long, không chỉ là cứu một phần đất đai màu mỡ của Việt Nam,  nhưng cũng là cứu một vựa lúa quan trọng của thế giới. Hiểu như vậy, thì  sựtham dự hỗ trợ của nhiều quốc gia khác trong công trình Con Đê Biển  Đa Dụng Chống Mặn là một nghĩa vụ quốc tế trong thế kỷ toàn cầu hóa /  globalization. 
NGÔ THẾ VINH
California, 05-05-2011 
Source: http//www.vietecology.org 
  THAM KHẢO:1/ Đê Biển Chống Mặn Đồng Bằng Sông Cửu Long, Ngô Minh Triết, P.E.; Mekong Sea Dyke, A Concept Paper / Draft, 04, 2011
2/ Thực Trạng Bi Đát của Lưu Vực Sông Mekong, Sáng Kiến Lancang-Mekong, Phạm Phan Long, P.E., Viet Ecology Foundation 1, 2011,www.vietecology.org/Article.aspx/Article/64
3/ Mekong-Cửu Long 2011 Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới, Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation, tháng 1, 2011,www.vietecology.org/Article.aspx/Article/63
4/US – Mekong Basin Cooperation follows ASEAN Meeting, Vientiane, Laos PDR, Jul 30, 2009, www.mrcmekong.org 
5/  Mekong-Mississippi Hai Dòng Sông Kết Nghĩa: Những Tương Đồng và Khác  Biệt, Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation, tháng 8, 2009, www.vietecology.org/Article.aspx/Article/58
6/  Hunsen backed China’s often-criticized development plans for the Mekong  River, Phnom Penh, Jun 29, 2005, (AFP)
7/ Hun Sen denies China Dams  Impacts; Thomas Miller & Cheang Sokha; Phnom Penh Post, Nov 17, 2010
8/  The Mekong, Environment and Development, Hiroshi Hori, United Nations,  University Press, Tokyo 2000
9/ Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười, Trần Ngươn  Phiêu, Thế Kỷ 21 số 219, tháng 7, 2007 
10/  On the Mekong, ABetter Way. Qin Hui, Economic Observer. Where China and  the World Discuss the Environment. December 25, 2010.  
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét